Ts. Bùi Thanh Quang [1]
Bài đăng tạp chí KH: “Văn hoá &Du lịch” số 2 tháng 12 -2011, trang 39-52 (saigonact mục tin tức -> tạp chí văn hoá, du lịch)
TÓM TẮT
Bài viết nêu lên một số vấn đề nan giải trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ như việc định chuẩn đầu ra còn mang tính hình thức, nội dung giáo trình nặng nề, phương pháp giảng dạy nặng về đọc-chép, kiểm tra thường xuyên chỉ là hình thức, kết quả thi, đánh giá chưa phản ánh được chuẩn đầu ra, từ đó bàn luận về giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo tín chỉ qua từng bước hoàn thiện và phân cấp chuẩn đầu ra, giảm tải nội dung, cải tiến phương pháp giảng dạy, cải tiến công tác kiểm tra, thi lý thuyết bằng kết hợp trắc nghiệm với tự luận theo chuẩn đầu ra.
ABSTRAST
The article raises some hard-solving problems in credit-based training systems such as unrealistic output criteria, too theoretic content, teaching methodology, in most cases, based on reading & note-taking, pro forma regular tests, and tests and exams’ results failing to reflect the output criteria. Based on the problems stated, the article suggests some solutions to increase the effectiveness of credit-based training systems via step by step improving and categorizing output criteria, reducing the content load of curricula, improving teaching methodologies, improving testing process such as combining multiple choice and writing tests in exams based on the output criteria.
NỘI DUNG
Đào tạo theo hệ thống tín chỉ là bước chuyển từ hệ thống đào tạo theo niên chế trước kia. Hệ thống đào tạo theo niên chế đã tạo ra những lớp người đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, tuy nhiên nó cũng có những bất cập. Chuyển sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ nhằm đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước trong điều kiện mới, hệ thống này cũng không tránh khỏi những vấn đề bất cập. Bài viết bàn về một số vấn đề cơ bản để nâng cao hiệu quả giáo dục qua từng bước hoàn thiện và phân cấp chuẩn đầu ra (CĐR), giảm tải nội dung, đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra, thi lý thuyết theo CĐR trong đào tạo theo tín chỉ.
I. Thực trạng vấn đề thực hiện chuẩn đầu ra
CĐR được các trường chuyên nghiệp đưa ra năm 2010 theo Công văn số 2196/BGDĐT-GDĐH ngày 22/4/2010. Đây là một việc mới mẻ, đòi hỏi phải có thời gian nhận thức và điều chỉnh, cho nên ở hầu hết các trường đào tạo chuyên nghiệp việc xây dựng CĐR còn mang tính hình thức; từ chưa định CĐR tốt và thừa kế cả cái hay và cái chưa hay của giai đoạn đào tạo theo niên chế nên các giáo trình nhìn chung đều có nội dung quá nhiều, chậm hoặc ít thay đổi để phản ánh tính thời sự của thực tiễn, chưa thiết kế đủ phần thực hành hoặc thiết kế còn mang nặng tính hình thức, cùng một giáo trình lại thực hiện cho nhiều ngành ngề khác nhau; Giáo viên (GV) thường sao chép giản đơn các giáo trình thành bài giảng cá nhân, nên nội dung nặng nề; việc kiểm tra, thi chưa đánh giá được CĐR.
Nhận định như trên vì: với mỗi học phần, CĐR còn mang tính định tính, thiếu định lượng; việc chuyển CĐR thành đề cương chi tiết học phần để thực hiện chuẩn cho cho từng bài, từng chương chưa chỉ ra được những vấn đề cơ bản, chủ yếu, những vấn đề quan trọng của học phần.
Nhìn chung ngay trong các bài giảng nhiều GV không đề cập tới mục đích yêu cầu của chương, bài, mà chính vấn đề này là cụ thể hoá của CĐR. Một số có GV đề cập đến cũng chỉ để đối phó với công tác quản lý chứ chưa phải là để quán triệt sâu sắc nó trong SV, từ đó dạy và học chưa tập trung cho thực hiện CĐR.
Việc kiểm tra, thi thường bằng hình thức tự luận (TL). Việc ra đề thi với số lượng câu hỏi quá ít, lại nhằm vào các đề mục, tiểu đề mục của giáo trình nên chưa bao quát được nội dung theo CĐR.
Ví dụ, ba học phần: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, học 10 tín chỉ, giáo trình ba học phần dài 1021 trang. Bình quân mỗi tiết (50 phút) GV phải giảng 6,8 trang. Với một GV có kinh nghiệm, 6,8 trang này viết tóm tắt, khái quát mất khoảng 30 phút, SV viết hết khoảng 45 phút. Như vậy số lượng đề thi cho một học trình có lẽ phải hàng chục câu hỏi?
Theo quy chế 43 [1], điểm học phần được tính căn cứ vào một phần hoặc tất cả các điểm đánh giá bộ phận, bao gồm: điểm kiểm tra thường xuyên; Điểm đánh giá nhận thức và thái độ tham gia thảo luận; Điểm đánh giá phần thực hành; Điểm chuyên cần; Điểm thi giữa học phần; Điểm tiểu luận và điểm thi kết thúc học phần, trong đó điểm thi kết thúc học phần là bắt buộc cho mọi trường hợp và có trọng số không dưới 50%. Thông thường các trường lấy điểm bình quân các lần kiểm tra thường xuyên hoặc lấy điểm thi giữa kỳ để tính hệ số 30%, còn lại điểm thi 70%. Việc kiểm tra thường xuyên hoặc thi giữa kỳ nhìn chung thường thiếu khách quan.
Từ một số vấn đề nêu trên, cả người quản lý và người dạy đều trăn trở: làm thế nào để nâng cao hiệu quả theo CĐR? Để góp phần bàn luận, chúng tôi cho rằng cần thực hiện điều chỉnh CĐR, giảm tải nội dung, cải tiến phương pháp giảng dạy, cải tiến công tác kiểm tra, thi lý thuyết bằng kết hợp trắc nghiệm với tự luận theo chuẩn đầu ra.
II. Điều chỉnh chuẩn, giảm tải nội dung, dạy-học, kiểm tra, thi theo chuẩn đầu ra
1. Điều chỉnh chuẩn đầu ra
a. Nâng cao chất lượng chuẩn đầu ra của ngành đào tạo
“CĐR là quy định về nội dung kiến thức chuyên môn; Kỹ năng thực hành, khả năng nhận thức công nghệ và giải quyết vấn đề; Công việc mà SV có thể đảm nhận sau khi tốt nghiệp và các yêu cầu đặc thù khác đối với từng trình độ, ngành đào tạo”[2].
Bộ GD&ĐT đã hướng dẫn xây dựng CĐR. CĐR của ngành bao gồm nhiều nội dung, trong đó bao gồm các yêu cầu chuẩn về kiến thức; Về kỹ năng (kỹ năng cứng, kỹ năng mềm); Yêu cầu về thái độ. Việc xây dựng CĐR của ngành là một quá trình, không thể xây dựng một lần là xong vì: Một là, thực chất khi xây dựng CĐR mới chỉ là xác định mục đích, yêu cầu đào tạo của ngành của trường, còn CĐR đó đáp ứng được nhu cầu của xã hội mức độ nào lại phải điều tra, khảo sát, nghiên cứu những SV sau một thời gian ra trường, làm việc. Thứ hai, việc xây dựng CĐR vừa qua còn mang tính hình thức. Các chuyên gia giáo dục đại học đều đánh giá hiện nay CĐR mà các trường công bố chỉ là hình thức và không có cơ sở để giám sát. Thậm chí TS. Vũ Thị Phương Anh – Phó giám đốc Trung tâm bồi dưỡng và hỗ trợ chất lượng giáo dục của Hiệp hội các trường ĐH, CĐ ngoài công lập, kết luận: “Việc công bố CĐR của các trường như hiện nay, thực chất chỉ là hình thức và hoàn toàn vô ích. Các trường công bố CĐR chỉ là những phát biểu do chính nhà trường đưa ra, và không ai biết chắc những CĐR đó có thể đạt được hay không”; Để thực sự đúng nghĩa CĐR “Cần phải có các tổ chức chuyên nghiệp để đo năng lực người học, đó là những đơn vị thứ 3”[3].
Do đó Bộ GD-ĐT đã quy định, hằng năm nhà trường phải rà soát, điều chỉnh CĐR cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn, sự phát triển của khoa học công nghệ và đặc biệt là đáp ứng nhu cầu xã hội.
b. Xây dựng chuẩn đầu ra các học phần, đề cương chi tiết học phần
Trên cơ sở CĐR của ngành đào tạo, các bộ môn xây dựng CĐR của học phần. CĐR kiến thức, kĩ năng và yêu cầu về thái độ của học phần được thể hiện cụ thể trong các chương trình học phần, được thực thi trong toàn bộ hoạt động giáo dục (giảng dạy, học tập, thực hành, thực tế môn học).
CĐR học phần bao gồm chuẩn của mỗi đơn vị kiến thức của học phần (mỗi học trình, mỗi bài hoặc chương, chủ đề, chủ điểm, mô đun).
CĐR kiến thức, kĩ năng, thái độ của một đơn vị kiến thức là các yêu cầu mà SV cần đạt được sau khi hoàn thành đơn vị kiến thức ấy. Các CĐR này cần xác định được ở mức độ chi tiết, cụ thể về các kiến thức, nội dung kỹ năng mà SV cần phải đạt được bằng định tính hoặc định lượng. Các CĐR này sẽ trở thành các nội dung của chương trình môn học.
Về kiến thức: SV phải hiểu rõ và nắm vững các khái niệm, định nghĩa, các kiến thức cơ bản trong giáo trình môn học, để từ đó có thể phát triển năng lực nhận thức ở cấp cao hơn.
Các mức độ kiến thức đạt được thường được xác định với 6 mức độ: biết, hiểu, vận dụng, phân tích & tổng hợp, đánh giá.
Về kĩ năng: SV phải từ biết bắt chước tiến lên tự thao tác, chuẩn hoá, phối hợp, tự động hoá (hoặc vận dụng các kiến thức môn học đã học để trả lời câu hỏi, giải bài tập, làm thực hành; Có kĩ năng tính toán, vẽ hình, dựng biểu đồ,…)
c. Chú trọng phân cấp trong chuẩn đầu ra học phần
Theo chúng tôi, CĐR kiến thức, kĩ năng, thái độ ví như bộ xương cốt trong cơ thể con người. CĐR này có thể nên tiến tới phân định rạch ròi các cấp độ:
Cấp thứ nhất của chuẩn là yêu cầu SV nắm vững tính hệ thống của những nội dung cơ bản, chủ yếu của môn học trên cơ sở nắm vững các khái niệm, định nghĩa, định lý, định luật.
Cấp thứ hai của chuẩn yêu cầu SV nắm được những vấn đề cơ bản, chủ yếu, những vấn đề quan trọng của học phần (bao gồm các khái niệm, định nghĩa) mà SV ở trình độ đạt yêu cầu nhất thiết phải nắm được (nhưng SV chưa nắm vững tính hệ thống). Cấp này có thể mô tả là tri thức “xương cốt” (rộng hơn kiến thức cốt lõi) chiếm độ khoảng 1/8 nội dung học phần.
Cấp thứ ba là những tri thức còn lại tạo nên tính toàn vẹn của học phần.
CĐR của mỗi đơn vị kiến thức phải được thể hiện một cách tường minh qua mục đích, yêu cầu, các câu hỏi ôn tập, thảo luận, kiểm tra của mỗi chương, bài, qua hệ thống ngân hàng đề thi.
d. Tác dụng của chuẩn đầu ra và phân cấp chuẩn đầu ra
Xây dựng được CĐR sẽ tạo ra cách tiếp cận lấy sinh viên làm trung tâm, nó đánh dấu một bước chuyển đổi từ nội dung những gì GV cần dạy trở thành CĐR, là những khả năng mà SV có thể làm được khi tốt nghiệp chuyên ngành. CĐR có thể:
– Giúp SV biết rõ trong tương lai họ sẽ như thế nào, từ đó họ cần cố gắng trong học tập để cùng GV tập trung vào những tri thức, kỹ năng thiết thực.
– Giúp nhà tuyển dụng có thông tin về các ứng viên khi tốt nghiệp, trong đó một thông tin quan trọng trong hồ sơ là bảng điểm học tập.
Phân cấp được CĐR có tác dụng thiết thực:
– Làm cơ sở cho biên soạn bài giảng, giáo trình theo hướng giảm tải nội dung, làm cho nội dung dạy học ngày càng phù hợp với SV mỗi ngành, mỗi trường.
– Việc dạy và học sẽ có trọng tâm, hệ thống; Việc kiểm tra, thi sẽ có định hướng theo CĐR một cách có ý thức, có kế hoạch; Hạn chế tình trạng “dạy tủ”, “học tủ”, góp phần làm giảm tiêu cực, dạy lỏi (bỏ bớt nội dung), hạn chế tình trạng quá tải do đưa thêm nội dung làm môn học trở nên nặng nề; Tạo điều kiện cơ bản, quan trọng để có thể tổ chức đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập; Việc dạy, học, kiểm tra, thi và đánh giá có sự thống nhất.
– Việc định CĐR học phần đúng còn cho phép ta định lượng được những yêu cầu cho hệ trung cấp, hệ cao đẳng, hệ đại học, hệ nghề theo hướng liên thông.
Với định CĐR theo ý tưởng trên, thì định đúng CĐR, soạn bài giảng không thể làm một lần là xong, đồng thời người định CĐR, soạn bài giảng, giáo trình phải thực sự là GV tâm huyết với nghề, đủ chuẩn để viết.
2. Giảm tải nội dung, dạy – học theo chuẩn đầu ra
a. Giảm tải nội dung qua quán triệt chuẩn đầu ra để soạn bài giảng
Khâu tiên quyết quyết định là cần quán triệt CĐR, đề cương chi tiết trong biên soạn ra bài giảng. Để biên soạn bài giảng, theo chúng tôi, chúng ta nên chú ý bốn vấn đề thực tế sau đây:
Một là, như đã nêu trên, đặc điểm của các giáo trình của toàn hệ thống giáo dục hiện nay là nội dung quá nhiều, chậm thay đổi, ít thay đổi để phản ánh tính thời sự của thực tiễn, chưa thiết kế tốt phần thực hành, cùng một giáo trình lại thực hiện cho nhiều ngành ngề khác nhau. GV thường sao chép giản đơn các giáo trình thành bài giảng cá nhân, nên nội dung nặng nề.
Hai là, theo điều tra xã hội học (ĐTXHH) một số năm của chúng tôi, 60% SV thường chỉ tự học trung bình 2 giờ/ngày [4. Tr.135].
Ba là, trong thi TL tình trạng quay cóp trong SV là phổ biến. ĐTXHH với từ 520 đến 730 SV năm thứ nhất, thứ hai và thứ ba ở một số lớp, trong một số trường qua một số năm vừa qua cho thấy: Có 76% SV cho rằng SV sử dụng phao thi nhiều, phổ biến; Có 24% SV khẳng định mình không bao giờ sử dụng phao thi [5. Tr.134].
Đặc biệt trong thi tốt nghiệp Lý luận chính trị bằng hình thức thi TL ở một trường cao đẳng, được tổ chức coi thi hết sức nghiêm ngặt vào tháng 8-2011, khi ĐTXHH 2 phòng thi 79 SV thì chỉ có 26 SV không sử dụng phao thi, chiếm 33%. Các bài thi thường có nội dung giống nhau, giống như giáo trình hoặc giống tài liệu hướng dẫn ôn thi do dùng phao thi.
Bốn là, trong điều kiện thực tế trên, chúng ta còn có một mâu thuẫn là phải vừa giảm thời gian lên lớp, vừa thực hiện yêu cầu “Đối với những học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu được một tín chỉ (15 tiết) SV phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân”.
Từ bốn vấn đề thực tế trên, chúng tôi cho rằng cần tinh giản, giảm tải nội dung bài giảng. (Bắt đầu từ năm học 2011 – 2012, Bộ GD&ĐT sẽ thực hiện giảm tải chương trình sách giáo khoa các bậc học, từ lớp 1 đến lớp 12 ở tất cả các môn, nội dung dạy học được giảm tải theo 5 tiêu chí). Cần có những GV đủ chuẩn viết bài giảng, giáo trình có quyết tâm và chiến lược giảm tải nội dung, tăng ví dụ thực tế trên cơ sở biên soạn “Bài giảng” có tính chất chung (có thể gọi là bài giảng mẫu, hay bài giảng chung). (Bộ GD&ĐT quy định:“Đối với hoạt động tham gia xây dựng và phát triển chương trình đào tạo, biên soạn giáo trình, tài liệu giảng dạy, sách tham khảo theo ngành, chuyên ngành thỉnh giảng, nhà giáo thỉnh giảng phải đảm bảo ít nhất một trong các yêu cầu sau: Có công trình khoa học được công bố trên tạp chí khoa học hoặc trong tuyển tập hội thảo khoa học trong, ngoài nước; Có sách chuyên khảo đã được xuất bản; Có đề tài nghiên cứu khoa học được nghiệm thu đạt yêu cầu từ cấp khoa và tương đương trở lên; Có hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được nghiệm thu, thanh lý [6]).
Bài giảng này cần chú ý:
– Cần chỉ rõ mỗi bài, mỗi chương, mỗi mục khi thực hiện bài giảng trên lớp cần tập trung những vấn đề xương cốt nào.
– Cần lược bỏ được những nội dung không thiết thực, quá rộng, trùng lắp với môn học khác, thiếu tính hệ thống, không tạo nên “xương cốt” nội dung. Cân nhắc thận trọng, có thể lược bỏ những nội dung quá cao, quá khó.
– Các luận điểm cần nêu bật ở đầu mỗi đoạn, sau đó mới trình bày, phân tích, chứng minh. Tìm cách diễn đạt nội dung bằng câu ngắn, ngôn ngữ thông dụng, dễ hiểu, tránh cách diễn đạt hàn lâm với những câu cấu trúc phức tạp.
– Cần chú trọng lấy ví dụ, dẫn chứng để minh hoạ cho việc phân tích, chứng minh các luận điểm từ thực tiễn. Cần chú trọng các ví dụ mang tính thời sự, phản ánh những thay đổi của khoa học, của thực tiễn nghề, tạo nên tính sinh động hấp dẫn, không khô cứng của lý thuyết. Những ví dụ không nhất thiết phải trình bày trên giảng đường mà có thể chỉ cần in vào bài giảng để SV tự đọc. (Nếu tham khảo các giáo trình như Kinh tế học của Paul A. Samuelson giáo sư đại học Massachusetts institute of Technology, Kinh tế học của David Begg…Giáo sư kinh tế học của trường Tổng hợp Luân Đôn, Kinh tế vĩ mô của N. Gregory Mankiw trường đại học Ha-vớt, Nhập môn xã hội học của Tony Bilton, Kenvin Bonnett… v.v. là những giáo trình mẫu mực thì ta sẽ thấy vô cùng hấp dẫn bới những ví dụ minh hoạ từ thực tiễn kinh tế, xã hội).
– Trong bài giảng cũng nên tập trung vào những chương quan trọng, thiết thực cho thực tế.
– Mục đích yêu cầu của học phần, phân số tiết thực hiện của mỗi chương, bài cần công khai, in vào bài giảng.
– Mỗi chương, bài, cần có phần tóm tắt. Ví dụ, nội dung giáo trình dài 8 trang, có thể cần khái quát lại vấn đề với một nội dung “xương cốt” với một đề cương tóm tắt lại chỉ còn trên, dưới 1 trang.
Có lẽ GV nên đặt câu hỏi: cái gì thiết thực là hành trang cho SV “học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”[2] để định hướng cho mỗi tiết, mỗi bài giảng. Nên từ bỏ cách dạy là, cố gắng “chạy đua” với thời gian để trình bày hết những vấn đề có trong giáo trình, và cần chống cách “dạy lỏi”, bỏ nội dung, vì nó phản hiệu quả.
b. Quán triệt sâu sắc chuẩn đầu ra, mục đích yêu cầu của mỗi bài cho sinh viên
Sau khi có bài giảng, GV cần dành một thời gian hợp lý để trao đổi khi bắt đầu một chương, bài, làm cho SV nắm vững mục đích, yêu cầu của chương, bài theo CĐR. Cần tránh việc khi lên lớp GV chỉ đọc lướt qua mục đích, yêu cầu của chương, bài cho qua chuyện.
c. Dạy, học tập trung vào chuẩn đầu ra
Để đảm bảo yêu cầu CĐR về tri thức, các nội dung dạy và học, các câu hỏi phát vấn, ôn tập cần có tính khái quát hoá, tổng hợp cao trên cơ sở nắm vững các phạm trù, khái niệm, các quy luật. Kiến thức phải tinh gọn, tập trung vào những vấn đề cơ bản, chủ yếu, những vấn đề quan trọng của học phần theo hướng đảm bảo tính hệ thống.
Vì sao phải chú trọng tính hệ thống của tri thức? Vì tư duy hệ thống dựa vào các phạm trù, khái niệm là yêu cầu đặc trưng của SV. Trình độ tư duy hệ thống của SV ta rất hạn chế vì ảnh hưởng của tư duy kinh tế nông nghiệp nhỏ và chế độ bao cấp; Thời gian chuyển sang kinh tế thị trường của ta chưa nhiều, lại chịu ảnh hưởng của phương pháp giáo dục nặng về nội dung chung chung. Về chỉ số thông minh (IQ) của sinh viên cũng chưa cao do đa số SV xuất thân từ nông thôn. “IQ của HS có bố mẹ làm nông thấp hơn đáng kể so với HS có bố mẹ làm nghề khác” là kết quả đề tài “Phương pháp nghiên cứu chỉ số thông minh ở học sinh trung học phổ thông” của TS. Nguyễn Công Khanh (trường ĐH Quốc gia Hà Nội). Do đó, trọng trách rèn luyện và nâng cao tư duy hệ thống với các phạm trù, khái niệm là của các trường cao đẳng, đại học. Tư duy hệ thống của SV được hình thành, củng cố, phát triển chính từ những nội dung mang tính hệ thống trong từng tiết giảng của GV.
Để đảm bảo tính khái quát nên tránh lối đặt câu hỏi cuối bài theo kiểu mỗi đề mục là một câu hỏi với mở đầu là “hãy trình bày, hãy cho biết, hãy phân tích”… đòi hỏi SV phải trình bày, phân tích toàn bộ nội dung của đề mục. Các câu hỏi như vậy hoàn toàn mang tính hình thức. Cũng cần tránh lối ra câu hỏi theo kiểu chọn một số đề mục “quan trọng” để yêu cầu SV trình bày, phân tích, vì như vậy bỏ sót nhiều kiến thức cơ bản.
GV nên sơ đồ hoá kiến thức trong thực hiện bài giảng trên lớp. GV cũng nên hướng dẫn SV cách đọc sách, cách tóm tắt nội dung một vấn đề theo sơ đồ. (Hiện nay Bộ GD&ĐT đã triển khai trên diện rộng chuyên đề ứng dụng bản đồ tư duy hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học. Nhiều giáo viên hồ hởi tiếp nhận phương pháp mới này với hy vọng sẽ giúp học sinh thoát khỏi lối học vẹt).
Đảm bảo yêu cầu CĐR về kỹ năng đang là một thách đố với nhiều trường đào tạo chuyên nghiệp. Với những học phần trực tiếp liên quan đến nghề nghiệp thì thiếu giáo cụ trực quan, thiếu máy móc, thiếu cơ sở thực tập. Với những học phần khác thì thiếu thời gian để thảo luận. Bản thân SV thì thời gian để tự học ít. Trên thực tế, nhiều GV phải cố gắng mới giảng hết nội dung mà không thể có thời gian tổ chức thảo luận. Nếu có tổ chức thảo luận thì hầu như SV không thể thảo luận được vì không chuẩn bị được nội dung. Để lấy người học làm trung tâm thì GV phải đặt câu hỏi, SV trả lời. Nhưng trong thực tế, khi GV hỏi, hầu như rất hiếm SV có thể trả lời. Đó là những vấn đề thực tế mà khi nêu vấn đề đổi mới phương pháp giảng dạy lấy người học làm trung tâm chúng ta nên có cái nhìn phù hợp với tình hình SV hiện nay. Theo chúng tôi, để thực hiện phương pháp giảng dạy tích cực, ta nên có thời gian để từng bước tổ chức thực hiện được việc giảm tải nội dung trên cơ sở đảm bảo tính hệ thống. Trong quá trình thực hiện giảm tải nội dung sẽ tiến hành nghiên cứu một cách nghiêm túc các hình thức sư phạm hướng tới lấy người học làm trung tâm. Lấy người học làm trung tâm chỉ có tiến bộ khi được tổ chức thực hiện trên thực tế một cách kiên quyết, có kế hoạch, biện pháp cụ thể và tính tập thể của cả một hệ thống tổ chức trên quy mô của ít nhất một nhà trường.
3. Tổ chức kiểm tra, thi phục vụ cho chuẩn đầu ra
Kiểm tra, thi là hai khâu trọng yếu để đánh giá mức độ kết quả theo CĐR. Giữ vững đầu ra theo CĐR sẽ có tác động tích cực đến toàn bộ các khâu của quá trình đào tạo, do vậy, cần nâng cao hiệu quả kiểm tra thường xuyên, thi học phần.
a. Yêu cầu của kiểm tra, thi đánh giá môn học
– Phải xây dựng được hệ thống ngân hàng đề thi. Phải coi xây dựng hệ thống đề là trách nhiệm bắt buộc của GV. Nhưng cần thấy rằng, có thể chấp nhận một GV giảng bài trên lớp, nhưng không phải mọi GV đều có thể có đầy đủ khả năng biên soạn ngân hàng đề thi theo CĐR, nhất là trong biên soạn câu hỏi trắc nghiệm. Trong việc ra đề, phải sử dụng những GV có trình độ chuyên môn tốt, đồng thời người duyệt đề cần cẩn trọng, nghiêm túc khi xem xét các đề thi.
Các khiếm khuyết cần tránh khi ra đề do trình độ của người ra đề là: ra câu hỏi thiếu dữ kiện, câu hỏi chỉ nêu dữ kiện không có yêu cầu trả lời, câu hỏi dùng từ không đúng nội dung, câu hỏi yêu cầu quá hẹp hoặc quá rộng so với đáp án, barem điểm lớn hơn hoặc nhỏ hơn khung điểm chuẩn (thường là điểm10). Khiếm khuyết thường gặp, cần tránh về kỹ thuật do sao chép, in ấn khi làm đề là: sao chép thiếu câu hỏi, in ấn thiếu nội dung hoặc nội dung bị mờ, bị lỗi không đọc được.
Để tránh những khiếm khuyết trên, trưởng bộ môn hoặc khoa nhất thiết phải đọc, kiểm tra một cách nghiêm túc trước khi ký duyệt. Nếu thi tốt nghiệp thì ban đề thi nhất thiết phải duyệt đề kỹ lưỡng.
– Đảm bảo tính hệ thống kiến thức môn học trong đề để đánh giá được các mặt kiến thức mang tính hệ thống, kĩ năng vận dụng kiến thức, thái độ tin tưởng vào tri thức trên cơ sở nhận thức khoa học của SV.
– Đảm bảo chính xác, trung thực, khách quan, công bằng, phản ánh được chất lượng thực, phân loại được SV. Mỗi đề thi nên tách rõ từng ý và xác định số điểm để định hướng cho SV phân chia thời gian viết từng ý khi làm bài.
– Đảm bảo tính khả thi: Nội dung, hình thức, cách thức, phương tiện tổ chức kiểm tra, đánh giá phải phù hợp với điều kiện học tập của SV, của nhà trường, phù hợp với mục tiêu theo từng học phần.
– Đảm bảo hiệu quả kinh tế, giáo dục: Đánh giá được đầy đủ các mục tiêu đề ra; Tạo động lực đổi mới phương pháp dạy học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
– Khắc phục tối đa tình trạng sử dụng phao thi của SV.
b. Nâng cao hiệu quả của kiểm tra thường xuyên
Kiểm tra thường xuyên nghiêm túc, khách quan làm cho GV và SV thấy ngay được kết quả dạy, học của mình đạt được mức độ nào. Do vậy nó trở thành động lực thúc đẩy tính chuyên cần của SV, tạo nên sự thi đua trong học tập của SV.
Kiểm tra nhiều lần mới phản ánh được sự chuyên cần và đánh giá toàn diện hơn. Qua thực nghiệm kiểm tra 4 đến 6 lần bằng trắc nghiệm (TN) với hai môn Tư tưởng Hồ Chí Minh và Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin ở trường cao đẳng Văn hoá, Du lịch, Nghệ thuật Sài Gòn và Cao đẳng GTVT III, chúng tôi đã điều tra XHH với 10 lớp, trên 500 SV thì 60% SV thích kiểm tra nhiều lần.
Việc kiểm tra thường xuyên có thể thực hiện cho mỗi một hoặc hai bài, chương nhằm thực hiện đánh giá theo chuẩn của mỗi đơn vị kiến thức. Mỗi lần kiểm tra làm cho SV cố gắng nắm kiến thức, sau khi kiểm tra họ lại điều chỉnh và nâng cao nhận thức, phục vụ cho việc tích luỹ cho thi theo CĐR học phần.
GV cần tuyệt đối tránh kiểu kiểm tra cho có, chấm bài thiếu khách quan. Đã có nhiều trường hợp GV khi kiểm tra để SV chép từ bài giảng, giáo trình, kết quả là nhiều bài giống nhau nhưng GV cho điểm khác nhau. Cũng có tình trạng là GV không chấm bài kiểm tra mà cứ cho điểm 7 hoặc 8 hoặc 9. Việc thiếu trách nhiệm của GV tạo ra phản hiệu quả kinh tế-giáo dục, làm mất lòng tin của SV.
c. Nâng cao hiệu quả của thi hết môn
– Cần xây dựng và nâng cao chất lượng ngân hàng đề thi. Các câu hỏi thi cần hợp thành hệ thống, tập trung vào những vấn đề “cốt lõi”. Vấn đề “cốt lõi” tức là những vấn đề cơ bản, chủ yếu của môn học, nó hẹp hơn khái niệm “xương cốt”. Khái niệm “xương cốt” rộng hơn, trong đó bao hàm cả những kiến thức quan trọng của môn học.
Số lượng câu hỏi nếu thi TL không nên quá nhiều, hoặc quá ít. Mỗi học trình có thể cần ít nhất 5 câu hỏi viết 45 đến 60 phút và giảm dần theo số học trình tăng lên. Ví dụ 2 đvht thì 10 câu, 3 đvht 12 câu, 4 đvht 15 câu, 5 đvht 18 câu v.v.
Mỗi câu hỏi thi mang tính cách khái quát, tổng hợp từ một số đề mục. Cần tránh những câu hỏi mà mỗi câu là một đề mục, tiểu đề mục mà SV có thể chép y nguyên xi nội dung của đề mục đó trong giáo trình.
– Các vấn đề cơ bản, chủ yếu phải được khái quát, tinh gọn, cô đọng, mang tính hệ thống khi giảng bài. Có thể nên hướng tới trình bày bài giảng theo vấn đề, theo chủ đề chứ không phải tuần tự theo đề mục. Do đó, nội dung vấn đề cơ bản, chủ yếu không còn là nguyên xi kiến thức được trình bày tỉ mỉ trong sách giáo trình. Phải đảm bảo tạo được những dấu ấn quan trọng làm cho SV ghi nhớ. Ở đây GV nên quan tâm đến bảng 1 “Tỷ lệ tri thức lưu lại được trong trí nhớ sau khi thu nhận bằng mỗi loại giác quan” để cải tiến phương pháp dạy, học, tạo điều kiện cho SV tập trung vào các vấn đề cơ bản, chủ yếu.
– Để khắc phục được kiểu “Thày đọc, trò ghi” có thể dùng phương pháp: SV chỉ ghi chép tiêu đề, những vấn đề hệ thống hoá, một số ý quan trọng, còn lại theo dõi trực tiếp trong giáo trình, tốt nhất là bài giảng của GV để đánh dấu những ý quan trọng. Phương pháp này có tác dụng làm giảm tối đa thời gian ghi chép. Theo ĐTXHH của chúng tôi với 324 SV cao đẳng tháng 6-2011, SV đã cho điểm với phương pháp nêu trên trong bảng 2 là: 21% cho điểm 10; 56% cho điểm 8; 23% cho điểm 6. Như vậy phương pháp không đọc chép có tổng số điểm 10 và 8 là 77%, cao hơn hẳn so với phương pháp đọc chép là 38%.
Bảng 2: So sánh đánh giá của SV về hai phương pháp giảng dạy
Phương pháp dạy |
Điểm 10 |
Điểm 8 |
Điểm 6 |
Không đọc chép |
21 |
56 |
23 |
Đọc chép |
13 |
25 |
62 |
– Cần nâng cao ý thức trách nhiệm của người coi thi. Kết quả ĐTXHH 800 SV có 44% SV cho quay cóp là do thấy tổ chức thi dễ. Mặt khác cũng phải thấy rằng nhiều SV dường như đã thói quen và trình độ dùng phao rất “tinh vi”, khó phát hiện. Việc khắc phục dần sử dụng phao thi là kết quả đồng lòng của cả hệ thống giáo dục nhà trường. Tuy nhiên, quản chặt đầu ra theo CĐR, quản chặt khâu thi sẽ có tác động ngược lại một cách mạnh mẽ với tất cả các khâu của quá trình đào tạo.
d. Kết hợp giữa kiểm tra, thi bằng hình thức tự luận với trắc nghiệm khách quan
+ Hình thức kiểm tra, thi TN có thể là một giải pháp tốt cho việc giải quyết nhiều vấn đề bức xúc:
– Giảm tải gánh nặng tri thức do phải học thuộc lòng, vì đặc điểm của TN là chỉ trên cơ sở trực quan các khả năng mà chọn đáp án đúng chứ không đòi hỏi thuộc lòng.
– Đảm bảo được tính toàn vẹn của tri thức, chống dạy tủ, học tủ trong khi việc dạy và học vẫn đảm bảo nội dung xương cốt. Kiểm tra TN chỉ cần 10-15 câu nhưng SV cần chú ý nghe giảng hoặc đọc hiểu bài đã học thì mới có thể làm tốt. Với TN, GV vẫn có thể đánh giá được mức độ trí năng biết, hiểu, vận dụng kiến thức tương đối toàn diện của SV.
– Có thể tiến tới khắc phục tốt tình trạng sử dụng phao thi, nâng cao hiệu quả giáo dục.
Qua thực nghiệm và nghiên cứu 4 năm qua, chúng tôi xin nêu một số kinh nghiệm thực tế với tổ chức TN:
– Cần có tổ chức thí điểm, thực nghiệm việc tổ chức viết, kiểm tra và thi kết hợp trắc nghiệm với tự luận để mỗi bộ môn, mỗi khoa, mỗi trường tự rút kinh nghiệm từ thực tế của mình, sau đó mới tổ chức trên diện rộng. Trước khi tổ chức nên có tập huấn về kỹ năng viết câu hỏi TN, cách tổ chức kiểm tra, thi bằng hình thức trắc nghiệm, trang bị và thống nhất phần mền đảo đề cho các khoa. Khi tổ chức trên diện rộng, trường mới mua sắm phần mềm và máy chấm.
– Nếu bí mật ngân hàng đề TN do số lượng câu hỏi ít, thì một số GV có xu hướng sợ SV rớt nhiều, kết quả không cao nên đã để lộ câu hỏi kiểm tra, thi. Hướng khắc phục là tăng dần số lượng câu hỏi TN lên, nếu đạt từ 120-150 câu hỏi/học trình thì công khai câu hỏi TN. (Sau mỗi học kỳ nên có bổ sung thay thế từ ¼ đến 1/3 số câu hỏi).
– Bắt đầu thực nghiệm kiểm tra TN, SV thường mất trật tự, không nghiêm túc trong làm bài. Sau vài lần kiểm tra, vài khoá thực hiện, ý thức của SV tốt hơn lên, GV có kinh nghiệm quản lý hơn, tình trạng trên sẽ giảm dần.
– Phải kiên quyết, tỉ mỉ trong biện pháp để ngăn ngừa được tình trạng SV lấy đề, dùng điện thoại chụp ảnh đề, dẫn đến tình trạng sử dụng phao thi, học tủ đề. Số lượng mã đề kiểm tra, thi phải đủ để chống hiện tượng phao thi, học tủ. Mỗi lớp kiểm tra, thi phải có 4 mã đề khác nhau, vì tình trạng truyền đề từ lớp trước sang lớp sau là khá phổ biến.
– Cần ngăn ngừa việc GV dạy theo câu hỏi TN. GV phải nêu cao tinh thần trách nhiệm để giảng dạy theo CĐR, theo mục đích yêu cầu của học phần. GV cần rèn luyện cho SV biết cách phân tích câu hỏi để chọn đáp án đúng. Khi giảng bài cần luyện cho SV kỹ năng đọc sách, đọc bài giảng, giáo trình, biết đánh dấu những ý quan trọng, những ý mà GV thường đặt câu hỏi trắc nghiệm vào đó.
+ Kết hợp kiểm tra, thi TN với TL. Mỗi trường, mỗi khoa không nên chỉ tổ chức thi bằng một hình thức là TN ngay vì: Một là, nên có thời gian thực hiện bước chuyển tiếp là tổ chức thi kết hợp TN với TL để tạo dư luận và nhận thức trong SV quen dần, hình thành, củng cố dần nền nếp dạy, học. Hai là, việc thi TL lâu nay đã tạo một nếp học tủ, sử dụng phao thi nhiều. Do đó, nếu chỉ thi một hình thức TN và tổ chức nghiêm túc, có thể SV sẽ đạt kết quả không cao, thậm chí rớt nhiều. Ba là, trên thực tế không thể đồng loạt hoàn thành bộ câu hỏi TN được.
Câu hỏi kiểm tra TL có thể làm trong 10 phút, nếu kết hợp với TN, với yêu cầu giải một bài tập, trả lời, thậm chí phân tích một vấn đề cơ bản, hay chủ yếu nào đó thật ngắn gọn. Đề thi TL trong kết hợp với thi TN cần có tính khái quát hoá, tinh gọn hơn so với khi thi chỉ bằng TL, theo hướng đảm bảo tính hệ thống.
Kết luận
Thực tiễn kinh tế, xã hội luôn vận động thay đổi, phát triển trong hội nhập quốc tế với một tốc độ nhanh chóng đã và đang đòi hỏi các trường, ngành giáo dục & đào tạo cần có những đổi mới thiết thực, đáp ứng được nhu cầu thực tế.
Những khiếm khuyết trong xây dựng CĐR, và những vấn đề nêu trên là không tránh khỏi. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo tín chỉ qua từng bước hoàn thiện và phân cấp CĐR, giảm tải nội dung, cải tiến phương pháp giảng dạy, cải tiến công tác kiểm tra, thi lý thuyết bằng kết hợp trắc nghiệm với tự luận theo CĐR là những suy nghĩ rút ra từ thực tiễn mà chúng tôi đã thực hiện. Thực tế mỗi khoa, mỗi trường vừa có nét chung, vừa có những đặc điểm riêng. Chỉ có tâm huyết với ngề, với tinh thần thi đua, đoàn kết tập thể, chung sức, chung lòng và công tác tổ chức tốt của những người lãnh đạo hiền – tài mới động viên mọi người bắt tay vào thực hiện những cải tiến, đổi mới thực sự mà không rơi vào hình thức.
Ngày 22-10-2011
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bộ GD&ĐT (2011), Quy chế Đào tạo ĐH và CĐ hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ. Ban hành theo QĐ 43/2007.
- Công văn số 2196/BGDĐT-GDĐH ngày 22/4/2010 “về việc hướng dẫn xây dựng và công bố CĐR ngành đào tạo”.
- Hà Ánh-Vũ Thơ, Chuẩn đầu ra cách xa thực tế, Báo ĐT Thanh Niên ngày20/10/2011
4 và 5. Bùi Thanh Quang (2011), “Lý luận, thực tiễn và sự cần thiết chuyển sang kết hợp kiểm tra, thi bằng trắc nghiệm khách quan”. Tạp chí khoa học Văn hoá & Du lịch (8-2011), 130-139.
- Bộ GD&ĐT (2011) Thông tư 44/2011/TT- BGDĐT ngày 12-10-2011 quy định về chế độ thỉnh giảng trong các cơ sở giáo dục.
Người viết: Bùi Thanh Quang, Tiến sĩ, giảng viên chính
Nơi công tác: Khoa Lý luận Chính trị, trường CĐ Giao thông Vận tải III, Q6. TPHCM
E-mail: thanhquangnb@gmail.com. ĐT: 0985 353 357
ĐC thường trú: Số nhà 38, đường số 7, KDC Nam Long, KP 2, An Lạc, Bình Tân.
[1] TS. Khoa Lý luận Chính trị, trường CĐGTVT III
[2] Bốn cột trụ của giáo dục thế kỉ XXI mà UNESCO đúc kết.